Các Luật Quan Trọng

Lê-vi-ký, bài 10

leviticus-16

Lê-vi-ký 17–18

Đây là chỗ đầu tiên trong Lê-vi-ký, mà Đức Chúa Trời bảo Môi-se chẳng những phải nói lại với A-rôn và các con trai người, mà ông còn phải nói cho “toàn dân Israel” (1–2). Lệnh phải nói lại cho toàn dân Israel được nhắc tới chỉ hai lần nữa mà thôi (21:24; 22:18).

Với tổng số dân Israel trên dưới hai triệu người, thì rất nhiều lần Môi-se chỉ nói cho những người lãnh đạo, trưởng tộc, để họ thuật lại cho người trong chi tộc họ. Nhưng bây giờ, Môi-se phải nói lại cho toàn dân Israel nghe lệnh truyền từ Đức Chúa Trời về việc giết các con vật làm tế lễ (3–9).

Hơn bốn trăm năm nô lệ ở Ai-cập, người Israel làm theo lời truyền khẩu không rõ ràng từ nhiều đời tổ phụ về việc dâng tế lễ cho Chúa trên trời, thì ngoài việc chưa có luật lệ gì hết, họ cũng chẳng có các trung tâm thờ tự như người Ai-cập; có chăng là rải rác những bàn thờ bằng đá, nơi họ tự ý dâng các tế lễ.

Vì bây giờ đã có Đền Tạm suốt thời gian di chuyển trong hoang mạc, thì Môi-se nhấn mạnh tính cách quan trọng của lệnh truyền từ Đức Chúa Trời về việc đó.

Lệnh Chúa truyền rằng từ nay họ không được tự ý giết ba loại thú là bò, chiên con hay con dê ở trong trại hay ngoài trại, nhưng phải đem tới “cửa Lều Hội Kiến để dâng lên Đức Giê-hô-va trước Đền Tạm của Ngài” (3–4).

Đây không phải chỉ là các con thú làm tế lễ bình an, mà các con thú họ muốn giết để ăn thịt cũng vậy. Tuy nhiên, lệnh nầy sẽ thay đổi khi họ vào đất hứa (Phục-truyền 12:4–16; 20–27).

Luật ấy được công bố để “chấm dứt việc dân Israel dâng sinh tế giết ngoài đồng” (5), và “không được dâng tế lễ cho ma quỷ,” người nào không tuân lệnh thì sẽ bị truất khỏi dân tộc mình (6–9). Nhưng sau khi đã vào đất hứa, ngoại trừ các sinh tế phải đem tới đền thờ, họ được giết thú để ăn thịt ở nơi họ sinh sống.

Một lệnh cấm cực kỳ quan trọng khác là không được ăn huyết. Trước đây, đã có lệnh cấm ăn huyết trong phần tế lễ bình an (Lêviký 3:17; 7:26-27); nay lệnh ấy được nhắc lại nghiêm khắc hơn và có hiệu lực trải qua mọi thời kỳ. Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ chống lại kẻ nào ăn huyết (10).

Lý do là vì “sinh mạng của xác thịt ở trong huyết …. Vì chính huyết là sinh mạng nên mới chuộc tội được …… Vì sinh mạng của mọi xác thịt ở trong huyết của nó …… vì sinh mạng của mọi sinh vật chính là huyết của nó” (11, 14).

Khi con thú làm sinh tế bị giết, huyết nó được rảy trên bàn thờ để làm lễ chuộc tội cho thầy tế lễ thượng phẩm, cho toàn dân Israel trong đại lễ chuộc tội, hay để chuộc tội cho người nào vô ý phạm luật hay phạm điều răn, thì việc ăn huyết trở nên sai trật.

Khi suy gẫm về việc Chúa cấm dân sự Ngài không được ăn huyết: “Các con không được ăn huyết của bất cứ loài sinh vật nào, vì sinh mạng của mọi sinh vật chính là huyết của nó” (14), hãy vô cùng cẩn thận với vài lý luận của một số sách giải-kinh.

Bởi vì có tác giả cho rằng Chúa chỉ cấm không được ăn thịt chung với huyết, hay thịt còn huyết; nhưng nếu ăn thịt riêng, huyết riêng thì không vi phạm lệnh cấm nầy.

Nhưng nghĩa đen của câu (14) trên quá rõ ràng: Đức Chúa Trời cho biết lý do Ngài cấm là vì sinh mạng của mọi sinh vật nằm trong huyết của nó. Thế thì, dù ăn riêng hay ăn chung với thịt cũng là ăn sự sống Chúa đã ban cho. Một vài nhà giải kinh khác cho rằng lệnh cấm đó chỉ áp dụng cho người Israel trong thời Cựu-ước mà thôi, tín hữu ngày nay không bị cấm; nếu vậy, thì Đức Thánh Linh và Hội-thánh nhắc nhở làm chi? (Công vụ 15:20, 29).

Việc ăn thịt một con thú chết tự nhiên hay chết vì bị thú dữ xé, thì cũng có luật cho cả người Israel lẫn ngoại kiều ở giữa họ: Họ “phải giặt quần áo, tắm trong nước và bị ô uế cho đến chiều tối (15).

Luật nầy liên quan tới việc cấm ăn huyết nói trên; vì con thú chết tự nhiên thì máu còn nguyên trong mình nó; con vật bị thú dữ xé vẫn còn máu trong thịt. Vì vậy, sau nầy dân Israel rất kiêng cữ không ăn thịt thú vật bị chết (16; Êxêchiên 4:14; 44:31).

Đức Giê-hô-va phán bảo Môi-se hãy nói cho dân Israel biết Ngài nhắc lại: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con” (18:1–2), để họ nhớ rằng Ngài có toàn quyền tể trị trên họ, và người Israel phải vâng theo các giới luật của Ngài, không bị dụ dỗ theo thói tục lan tràn của người ở xứ mà họ sẽ vào chiếm hữu.

Họ không được bắt chước các lề thói của người Ai-cập, lại càng không được bắt chước những điều người Canaan vẫn làm. Vì nhờ tuân theo các quy định và giữ gìn luật pháp của Đức Chúa Trời thì sẽ được sống (18:3–5).

Lúc luân thường, đạo lý về các vấn đề liên hệ tình dục giữa hai phái nam nữ chưa thành kỷ cương, người ta thường hành động theo sự đòi hỏi của xác thịt. Vì thế, luật cấm các mối quan hệ tình dục bất chính phải được công bố, để Israel là dân tộc được Đức Chúa Trời tuyển chọn, phải biết giữ gìn một nếp sống thánh khiết.

Trước đoạn nầy, Chúa đã phán: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con” (11:44), ở đây Ngài nghiêm trang nhắc lại ba lần (18:2, 4, 30), để dân Israel ghi nhớ rằng Ngài là Đức Chúa Trời cực thánh.

Các loại quan hệ tình dục giữa những người bà con ruột thịt với nhau đều là bất chính (18:6). Chỉ có những người bị sự dâm dục làm mờ trí óc mới toan tính và thực hiện các mối quan hệ tình dục bất chính với mẹ ruột mình, hoặc với vợ lẽ của cha mình. Vì thế, Đức Chúa Trời cấm ngặt các mối liên hệ tình dục nầy (18:7–8).

Anh chị em cùng cha khác mẹ, hay cùng mẹ khác cha, dù là ở chung nhà, hay người anh, chị, em đó do người vợ khác của cha không ở chung nhà sinh ra, thì cũng không được có quan hệ tình dục với nhau (18:9).

Luật nghiêm cấm đàn ông không được ăn nằm với cháu gái nội hay ngoại, hoặc với chị em của cha hay chị em của mẹ, hoặc bác gái hay thím; vì làm như vậy là sỉ nhục cha mẹ và anh em của cha (18:10-14).

Những điều cấm nầy phải nêu ra, vì trong một xã hội trọng nam khinh nữ, thì nam giới trong nhà luôn là người chủ động trong các mối quan hệ tình dục; nữ giới giữ vị trí rất thấp thỏi và đầy thiệt thòi.

Mặc dù thời nay người ta đã biết các mối quan hệ tình dục bất chính là tội lỗi, nhưng sự đòi hỏi xác thịt vẫn mạnh hơn ý thức đạo lý. Nên, luật cũng cấm cha chồng ăn nằm với con dâu (18:15), không được quan hệ tình dục với chị dâu hay em dâu; cũng không được lấy mẹ lẫn con gái, cháu nội hay cháu ngoại của người ấy, vì là điều đồi bại (18:16–17); cưới chị hay em của vợ trong lúc vợ còn sống là gây ra sự ganh ghét lẫn nhau giữa chị em ruột (18:18).

Tình dục là một trong ba nguyên nhân chủ yếu gây ra tội lỗi và tật bệnh nan y. Giao hợp với đàn bà đang kỳ kinh nguyệt thì bị ô uế; ngoại tình và tà dâm với vợ người khác là phạm tội nặng và bị ô uế nữa (18:19–20).

Cư dân ở xứ Canaan thời ấy dùng con cái làm sinh tế dâng cho Mo-lóc, thần mình người đầu bò, của họ (18:21). Thêm vào đó, họ thực hành đồng tính luyến ái, và cả đàn ông lẫn đàn bà giao cấu với thú vật (18:22–23).

Các thói tục đáng kinh tởm ấy, của các dân tộc A-mô-rít trong xứ Canaan, đã làm cho đất bị ô uế (18:24–25). Họ đã phạm các tội trọng đó từ thời Áp ra-ham chưa sinh con, nhưng chưa tới cực độ: “Đến thế hệ thứ tư, dòng dõi con sẽ trở lại đây, vì tội ác của dân A-mô-rít hiện chưa đến cực độ” (Sáng thế 15:16).

Tới thời dân Israel được giải thoát ra khỏi Ai-cập, thì dân A-mô-rít đã buông mình vào đủ thứ tội ô uế; đến độ đất phải mửa họ ra và họ bị tuyệt diệt. Vì vậy, Đức Chúa Trời nói về số phận của họ để cảnh cáo dân Israel (18:26–27).

Bổn phận và cách sống của dân Israel vào lúc ấy cần phải có một bộ luật pháp thánh khiết và minh bạch, để chỉ dẫn và cai trị họ: “Vậy, đừng làm cho đất trở thành ô uế; nếu không, đất cũng sẽ mửa các con ra như đã mửa các dân tộc từng sống ở đó trước các con” (18:28).

Để toàn dân sẽ không bị ảnh hưởng của án phạt nầy, người nào phạm một trong các tội đáng kinh tởm đó phải bị trục xuất khỏi dân chúng (18:29), nghĩa là sẽ bị tử hình (Hêbơrơ 10:28).

Dân Israel phải tuân theo lời phán dạy của Đức Chúa Trời, họ “không được theo các thói tục ghê tởm mà dân chúng sống ở đó trước các con đã làm, và đừng để cho các thói tục đó làm cho các con ô uế,” bởi vì Đấng dẫn dắt và cứu giúp Israel là Giê-hô-va Đức Chúa Trời thánh khiết (18:30).

Đây là bài học rất thực tế đối với tất cả con cái Chúa ở mọi thời đại. Bởi vì sự hiểu biết về sự sống do huyết cung cấp cho sinh mạng của mọi loài xác thịt sẽ giúp chúng ta tránh các lỗi lầm do sự thiếu hiểu biết.

Đồng thời, chúng ta cũng vô cùng cẩn thận trong đời sống tình dục của mình, để xứng đáng với sự thánh khiết mình đã nhận được qua sự tái sinh từ Đức Thánh Linh.

Leviky10.docx
Rev. Dr. CTB