Theo Dõi Tận Thế, bài 05
Truyền Đạo 3:14–15
Thời xưa, vua Solomon được xem là người có trí khôn xuất sắc nhất từng sống trên trần gian; vì khi ông xin Đức Chúa Trời ban cho ông sự khôn ngoan để biết cách cai trị dân Israel, Ngài đã ban cho ông trí khôn ấy (1Các Vua 3:5, 9, 12). Với sự khôn ngoan từ Chúa, ông suy nghiệm và nói: “Điều gì hiện có thì đã có từ xưa,…Đức Chúa Trời cho tái diễn những việc đã qua” (Truyền Đạo 3:15). Lời ấy được chứng minh như thế nào trong tiến trình tái lập quốc gia Israel như đã diễn ra?
Thuở xưa, sau khi hoàng đế Ba-tư Cyrus đánh bại vua Nabonidus của Babylon vào năm 539 BC, ông ra chiếu chỉ tha cho người Giu-đa được trở về quê cũ của họ, xây lại Jerusalem. 150 năm trước khi Cyrus sinh ra, Đức Chúa Trời đã sai tiên tri Êsai phán trước việc ấy. Lịch sử quay nhanh tới năm 1945 tại Hoa kỳ, Đức Chúa Trời đưa ông Harry S. Truman lên địa vị tổng thống, lúc Hoa kỳ là một cường quốc nổi lên mạnh hơn hẳn các cường quốc trước đó. Mà Harry Truman chỉ mới tập tễnh vào lãnh vực chính trị địa phương năm 1922 do bị thất bại trên thương trường.
Sau ba lần đắc cử thẩm phán, ông đắc cử Thượng nghị sĩ Liên bang của Missouri vào năm 1934. Ông được tổng thống Roosevelt chọn vào liên danh tranh cử nhiệm kỳ tổng thống thứ tư, điều chưa từng xảy ra trước đó, thay thế phó tổng thống đương nhiệm Henry Wallace. Tổng thống Roosevelt tái đắc cử; nhưng nhậm chức ngày 20 tháng Giêng, 1945, thì chết bất đắc kỳ tử ngày 12 tháng Tư, 1945. Harry S. Truman tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Hoa kỳ ngay buổi chiều hôm ấy. Đức Chúa Trời đã đặt ông Truman vào chức tổng thống đúng thời điểm Ngài sẽ dùng.
Đệ nhị thế chiến chấm dứt ở Âu châu cũng chấm dứt luôn nạn người Do-thái bị phát xít Đức và phe trục diệt chủng. Khoảng 6 triệu người Do-thái đã bị phát xít Đức giết hàng loạt trong các lò hơi ngạt và lò hỏa thiêu. Họ bị săn lùng khắp nơi để đưa vào các trại tập trung; đúng như lời Đức Chúa Trời phán trước qua Môi se: “Tại đó, Đức Giê-hô-va sẽ làm cho lòng anh em run sợ, đôi mắt mỏi mòn và tâm linh tàn tạ. Mạng sống anh em bị treo lơ lửng trước mặt anh em; cả ngày lẫn đêm anh em sống trong phập phồng lo sợ, không biết sống chết thể nào” (Phục Truyền 28:65–66).
Mặc dù Hoa kỳ ủng hộ Tuyên ngôn Balfour 1917; nhưng tới năm 1945, tổng thống Roosevelt, dù biết Arabs sẽ chống Israel, bảo đảm với khối Arab rằng Hoa kỳ sẽ không can thiệp vào việc tái lập quốc gia Israel nếu không thảo luận trước với khối Arab và người Do-thái trong vùng. Trong khi đó Anh quốc, được ủy trị Xứ Thánh tới tháng 5, 1948, thì chống lại việc tái lập nước Do-thái, cũng không cho thành lập một nước Arab trên dải đất Palestine và kịch liệt chống lại việc cho phép người Do-thái di cư không giới hạn về khu vực nầy. Anh quốc làm như vậy vì muốn giữ mối liên hệ hữu hảo với các nước Arab trong vùng hầu duy trì lợi ích chính trị và kinh tế của mình.
Ông Truman nhậm chức chưa đầy một tháng thì đệ nhị thế chiến ở Âu châu chấm dứt. Những người bị tan lạc trong chiến tranh lần lượt trở về quê cũ, nhưng hàng trăm ngàn người Do-thái tị nạn không được về xứ Do-thái. Họ bị giữ trong các trại tập trung ở đảo Cyprus trong rào kẽm gai có lính Anh canh gác, và bị đối xử như thời lính Đức giam giữ họ vậy. Tổng thống Truman gửi thư riêng cho thủ tướng Anh Clement Attlee yêu cầu thả năm chục ngàn người tị nạn Do-thái ấy để họ được di cư về cố quốc. Vì thủ tướng Attlee chống lại đề nghị đó và cảnh cáo Mỹ đừng nhúng tay vào, nên tổng thống Truman bạch hóa lá thư. Anh bị áp lực công luận phải thả người Do-thái.
Tổng thống Mỹ Truman được sử sách ví như hoàng đế Ba-tư Cyrus thời cổ đại; cả hai đều có hảo ý cho người Do-thái trở về quê hương của họ. Lịch sử đã lặp lại: “Điều gì hiện có thì đã có từ xưa,…Đức Chúa Trời cho tái diễn những việc đã qua” (Truyền Đạo 3:15). Sự kiện lịch sử đó lại ứng nghiệm lời hứa của Đức Chúa Trời phán qua Môise: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ giải cứu anh em khỏi cảnh lưu đày, sẽ thương xót anh em và sẽ tập hợp anh em về từ mọi dân tộc mà Ngài đã phân tán anh em. Dù anh em có bị lưu đày đến cuối trời thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em cũng sẽ tập hợp anh em lại và đem anh em trở về. Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ đưa anh em về xứ mà tổ phụ anh em chiếm hữu và anh em sẽ sở hữu nó. Ngài sẽ làm cho anh em thịnh vượng và đông đúc hơn tổ phụ anh em” (Phục Truyền 30:3–5). Chẳng ai chối cãi điều đã ứng nghiệm đó.
Lịch sử cũng cho thấy “Đức Chúa Trời cho tái diễn nhưng việc đã qua” trong sử sách Do-thái hiện đại. Vào năm AD 66, người Do-thái nổi loạn chống quân La-mã vì tổng đốc Gessius Florus tịch thu quỹ của Đền Thờ và bắt giam nhiều trưởng lão Do-thái. Quân La mã từ Syria tới tiếp viện bị phục kích và đại bại. Dân Do-thái bầu ba người vào chính quyền lâm thời là Ananus ben Ananus, Joseph ben Gurion, và Joshua ben Gamla. Ben Gurion đặc trách quốc phòng nhưng vì chủ trương trung dung nên bị thành phần quá khích của quân nổi loạn giết chết. Bốn năm sau, AD 70 tướng Titus dẹp tan loạn quân và san bằng Jerusalem. Quân Do-thái bị diệt luôn ở chiến lũy Masada.
Thời gian trôi nhanh tới năm 1948, lãnh tụ của người Do-thái lúc ấy tên là David Ben Gurion, cũng lãnh đạo tất cả các lực lượng dân quân vũ trang Do-thái nữa. Lãnh tụ Ben Gurion thời cổ thất bại và người Do-thái bị tan lạc khắp nơi. Ben Gurion tân thời thì lãnh đạo tái lập thành công quốc gia Do-thái tân thời. Trùng hợp tên, nhưng kết quả khác nhau. David Ben Gurion đã chuẩn bị sẵn sàng cho ngày thành lập quốc gia Israel tái sinh, kể từ khi Liên Hiệp Quốc thông qua Kế Hoạch Phân Chia ranh giới để một phần đất cho người Do-thái lập quốc, một phần dành cho người Arabs.
Đa số người Do-thái đồng ý với kế hoạch có hiệu lực vào tháng 10, 1948; nhưng người Arabs thì kịch liệt chống lại kế hoạch đó. Anh quốc bèn thông báo sẽ rút hết quân ra khỏi xứ vào ngày 14 tháng 5, 1948, nhưng từ chối không chuyển quyền kiểm soát cho người Do-thái phần đất dành cho họ trước khi rút đi. Ben Gurion biết rằng khi quân Anh rút đi rồi thì họ sẽ bị tấn công bởi quân số khổng lồ vượt trội của các nước Arab chung quanh. Tuy vậy, 4 giờ chiều ngày 14 tháng 5, 1948, đứng trước ảnh chân dung của Theodor Herzl, David Ben Gurion đọc bản tuyên ngôn độc lập tái thành lập quốc gia Do-thái sau hai mươi sáu thế kỷ bị xóa sổ trên bản đồ và lịch sử thế giới.
Trong suốt thời gian đó người Do-thái thở than trong tuyệt vọng: “Xương chúng tôi đã khô, niềm hi vọng chúng tôi đã mất, chúng tôi bị diệt sạch.” Nhưng Đức Chúa Trời phán: “Hỡi dân Ta, nầy, Ta sẽ mở mồ mả các ngươi, làm cho các ngươi ra khỏi mồ mả, và Ta sẽ đem các ngươi về trong đất của Israel” (Ezekiel 37:11–12). Sau khi Ben Gurion đọc bản tuyên ngôn độc lập, tổng thống Truman công nhận quốc gia Do-thái; nhưng đến nửa đêm 14 tháng 5, 1948, năm nước Arab là Ai cập, Syria, Lebanon, Jordanie, và Iraq đồng loạt tấn công, định giết chết quốc gia Israel sơ sinh chỉ được bảo vệ bởi các nhóm dân quân tập hợp dưới một lá cờ và một bộ chỉ huy chung.
Giống như trước đó 2700 năm, Giu-đa ở trong tình thế tuyệt vọng vì bị đoàn quân đông gấp bội của ba nước thù nghịch xúm lại vây đánh. Đức Chúa Trời đã giúp đỡ họ thắng (2Sử ký 20:20–22) Mặc dù năm 1948 Israel phải kịch liệt chiến đấu tự vệ, nhưng từ chỗ phòng thủ, họ đã chuyển sang thế tấn công và chiến thắng. Mọi người đều tưởng nước Israel sơ sinh sẽ bị năm nước Arab, cộng thêm một tiểu đoàn Arab Saudi chiến đấu dưới cờ Ai-cập, nuốt sống. Nhưng lịch sử đã lặp lại. Israel đã chiến thắng vẻ vang, mặc dù các nước Arab tấn công nhiều lần, nhiều đợt, dù đợt nào cũng thua. Tháng Ba, 1949, Israel đánh thắng trận chót chiếm hết phần đất miền cực nam ở Eliat.
“Khi đi ra giao chiến với quân thù, nếu anh em thấy chúng có nhiều ngựa, nhiều xe và binh lực đông hơn thì đừng sợ, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em là Đấng đã đem anh em lên từ Ai Cập sẽ ở với anh em” (Phục Truyền 20:1). Đức Chúa Trời không bao giờ thất hứa. Ngài không khi nào ra tay mà không hoàn thành. “Vì như mưa và tuyết từ trời rơi xuống và không trở về đó nữa mà tưới nhuần đất đai, làm cho đâm chồi nẩy lộc, để có hạt giống cho kẻ gieo, có bánh cho kẻ ăn, thì lời của Ta cũng vậy, đã ra khỏi miệng Ta sẽ không trở về luống công, nhưng sẽ thực hiện ý Ta muốn và hoàn thành việc Ta giao” (Êsai 55:10–11). Israel đã trở về đất cũ theo lời Chúa hứa.
TheoDoiTanThe05.docx
Rev. Dr. CTB