Lìa Bỏ Lòng Tin

Theo Dõi Tận Thế, bài 13

2Sử Ký 33:2–6

Vua làm điều ác dưới mắt Đức Giê-hô-va, theo những thói tục ghê tởm của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi dân Y-sơ-ra-ên.

3Ma-na-se xây lại các nơi cao mà vua cha là Ê-xê-chia đã phá hủy, lập các bàn thờ thần Baal, làm các tượng nữ thần A-sê-ra, thờ lạy tất cả các ngôi sao trên trời và phục vụ chúng.

4Vua xây những bàn thờ trong đền thờ Đức Giê-hô-va là nơi Đức Giê-hô-va đã phán rằng: “Danh Ta sẽ ngự tại Jerusalem đời đời.”

5Trong hai sân của đền thờ Đức Giê-hô-va, vua cũng lập những bàn thờ cho tất cả các ngôi sao trên trời.

6Vua dâng con cái mình làm tế lễ thiêu trong thung lũng Ben Hinom, xem bói toán, dùng phù phép và ma thuật, theo các đồng cốt và thầy phù thủy. Vua làm quá nhiều điều ác dưới mắt Đức Giê-hô-va để chọc giận Ngài.

Dân Israel đã từ bỏ Đức Chúa Trời và luật pháp thánh thiện của Ngài, chạy theo các thần Baal và Astarte của người Canaan; vì thờ cúng Baal và Astarte thì có hình tượng cụ thể mắt thấy, không bị cô lập vì có niềm tin chung với các lân bang, được phóng túng trong ước muốn không bao giờ cạn của sự thỏa mãn lạc thú xác thịt, và họ tin rằng đó là các thần cụ thể đem dư dật nước mưa đến tưới mùa màng để lương thực đầy tràn, đời sống ngày càng sung mãn, giàu có. Chẳng những vậy, Israel cũng tiến tới chỗ bắt chước các dân ngoại dùng con cái mình làm sinh tế dâng cho tà thần Moloch đáng kinh tởm của người Ammon:

(1Vua 11:7) “Bấy giờ, Solomon xây một nơi cao trên núi đối diện với Jerusalem cho thần Chemosh là thần đáng ghê tởm của người Moab, và cho thần Moloch là thần đáng ghê tởm của người Ammon.

Người Israel thời đó còn bắt chước người Canaan tạc tượng cho nhiều nữ thần, và theo thói tục dâm dật của những người thờ các nữ thần ấy. Mặc dù Đức Chúa Trời đã sai nhiều vị tiên tri nhắc nhở, cảnh cáo, nhưng họ không để tâm vào các lời cảnh cáo rất nghiêm khắc ấy; cho nên, hậu quả là bị lưu đày biệt xứ

(2Các Vua 17:22–23) “Dân Israel cứ tiếp tục phạm tất cả tội lỗi mà Jeroboam đã phạm. Họ chẳng từ bỏ một tội nào 23cho đến khi Đức Giê-hô-va đuổi họ khỏi Ngài, đúng như Ngài đã phán bởi tất cả các nhà tiên tri, là đầy tớ Ngài. Như vậy, Israel bị lưu đày biệt xứ sang Assyri cho đến ngày nay.

Sau khi được vua Cyrus cho trở về quê hương, người Giu-đa từ bỏ hẳn sự thờ hình tượng. Nhưng dòng dõi lưu vong của họ còn lưu lại ở Âu châu thì theo thuyết vô thần càng ngày càng xa Chúa.

Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ được các quốc phụ, những người kính sợ Đức Chúa Trời, thành lập trên nền tảng đạo đức do Kinh Thánh truyền dạy. Nhưng sau khi Hoa kỳ đánh thắng Đức và Nhật trong đệ nhị thế chiến, được sống hòa bình và trở nên cường quốc hàng đầu thế giới rồi, người Mỹ bắt đầu lối sống suy đồi, vô đạo đức. Giống như đã xảy ra tại nước Israel cổ đại, xã hội văn minh Tây phương cũng từ từ rời xa Chúa và tôn thờ những ước muốn vật chất làm thần tượng. Người ta không gọi những thứ đó là thần tượng hay các loại thần, mà khoác lên các hình thức mới rất xa lạ với đức tin xưa, giống như vườn nho không còn sinh trái tốt mà sinh trái nho hoang

(Êsai 5:4, 18) “Có điều gì cần làm cho vườn nho của Ta, mà Ta không làm cho nó chăng? Tại sao Ta mong nó sinh trái nho tốt, mà nó lại sinh trái nho hoang? … 18 Khốn cho kẻ dùng dây dối trá kéo sự gian ác, như dùng cáp kéo xe mà lôi kéo tội lỗi.

Sự biến dạng của nền tảng đạo đức xã hội Mỹ đã chuyển từ những chuyện xấu hổ lén lút thực hiện trong bóng tối sang công khai giữa thanh thiên bạch nhật, từ việc kín đáo chạy theo chủ nghĩa khoái lạc và tình dục vô luân, trở thành công khai cổ súy cho những hành vi sống sượng nhân danh chủ nghĩa vô thần. Vì nếu chẳng có thần thánh gì hết thì cũng sẽ chẳng có sự trừng phạt gì ở cõi chết, tại sao người ta phải vất vả cố gắng sống đạo đức để được cái gì? Từ những cách lý luận đó, nền văn hóa tân thời ở Hoa kỳ gia tăng sự thù nghịch đối với tín đồ Cơ-đốc-giáo. Những điều bị xã hội trước kia cấm kỵ, thì bây giờ được ưa thích, và những gì lén lút trước kia bây giờ chính thức trở nên rất bình thường, không có gì phải xấu hổ hay né tránh.

(Êsai 5:20) “Khốn cho những kẻ bảo ác là thiện, bảo thiện là ác; lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối; lấy đắng làm ngọt, lấy ngọt làm đắng.

Dân Israel ngày xưa chẳng bao giờ thú nhận họ thờ hình tượng, cũng chẳng ai công khai xác nhận mình thờ thần Baal. Nhưng khi một nền văn minh vốn tôn thờ Đức Chúa Trời và tôn trọng ý muốn thánh thiện của Ngài trong cuộc sống xã hội, bây giờ từ bỏ các nguyên tắc thánh khiết của Đức Chúa Trời, không còn xem là mỹ đức đáng chuộng, thì việc họ sẽ từ từ quay sang Baal là điều không thể tránh khỏi. Mặc dù người Israel không mở miệng xưng danh Baal, nhưng họ phục vụ hắn từ hình thức nầy qua hình thức khác mà thôi. Thời nay, khi nền văn hóa quý trọng sự sống bị đổi chiều, quay sang vồ vập sự gia tăng tiền bạc, bất động sản, của cải vật chất, sự thịnh vượng, và lợi lộc riêng lên trên mọi thứ khác, thì cũng là tinh thần thờ Baal vật chất, tiền bạc.

Giống như tình trạng bội đạo thời cổ xưa, tinh thần bội đạo tân thời được minh chứng bởi sự đồi bại của nền văn hóa. Cách nay chưa lâu, lời nói thô lỗ, tục tĩu và đồi bại không được phép công khai trong xã hội Mỹ. Nhưng bây giờ, không những công khai trên phim ảnh mà còn công khai ở chốn nghị trường, trên chính trường luôn. Sự công khai nầy chứng tỏ một thực tế là người dân các nước văn minh đã chấp nhận ấy là chuyện rất bình thường, không cho là xấu nữa. Bởi vì chẳng phải chỉ có giới chính trị gia thô lỗ, hoặc giới thể tháo gia ít học và giới nghệ sĩ dâm dật, mà những vị đạo cao đức trọng trong giới giáo dục cũng mở miệng chửi rủa tục tĩu trước công chúng. Có ai thắc mắc tại sao tình trạng xã hội đã sa bại tới mức không ngờ như hiện nay?

(Êsai 9:16b) “Vì tất cả họ đều vô đạo và gian ác, miệng nào cũng nói điều ngu xuẩn.

Sự biến dạng không phải chỉ xảy ra trong lãnh vực niềm tin, mà nhiều lãnh vực khác cũng đều bị biến dạng theo khi đạo đức tôn giáo không còn được tôn trọng. Làm sao tín đồ có thể sống thánh thiện và xã hội Âu Mỹ có thể giữ được đạo đức Cơ-đốc khi người đứng đầu giáo hội lên tiếng chửi tục? Đây không phải là tình trạng sa đọa của loài người. Khi người ta tôn thờ quyền lực tối tăm mà không nhận ra đức tin của mình đã bị biến dạng, thì tình trạng ấy sẽ dẫn tới những sự thay đổi khác trong nhận thức chung của xã hội. Ví dụ, hôn nhân vốn được kể là sự kết hợp thanh khiết để thỏa mãn tình yêu nam nữ và bảo tồn nòi giống. Nhưng ngày nay hôn nhân không còn mang nghĩa đó nữa, không còn được tôn trọng, chỉ để thỏa mãn dục vọng, vì thế bị lãnh hậu quả

(Êsai 13:11) “Ta sẽ trừng phạt thế gian vì sự gian ác, phạt kẻ ác vì tội lỗi của chúng; Ta sẽ chấm dứt sự kiêu căng của kẻ ngạo mạn và hạ sự tự cao của kẻ bạo ngược.”

Khi tình dục ngoài hôn nhân trở nên phổ biến lan tràn và được xem là chuyện bình thường ở các xã hội có nguồn gốc Cơ-đốc-giáo, thì các chuyện bẩn thỉu đáng tởm lợm từ phòng the trở thành văn hóa đại chúng. Đến nỗi đàn bà ăn mặc càng lúc càng lõa lồ và hãnh diện về sự lõa lồ của mình một cách trơ tráo, không thấy xấu hổ như thời tổ tiên chưa quá nửa thế kỷ trước. Giống như thời Israel bội nghịch chống lại Đức Chúa Trời và trưng bày hình tượng các nữ thần Canaan khắp nơi, thì tình trạng bội đạo của người thời nay cũng làm y như vậy bằng đủ thứ hình ảnh khiêu dâm trâng tráo chưa từng có. Các phương tiện giải trí truyền thông tích cực truyền bá thứ văn hóa khiêu dâm qua phim ảnh ô uế tởm lợm, từ xứ mình gieo rắc khắp thế giới

(Khải Huyền 18:2–3) “Ba-by-lôn vĩ đại đã sụp đổ, đã sụp đổ rồi! Nó đã trở nên sào huyệt của các quỷ, hang ổ của các tà linh và các loài chim ô uế, đáng ghét. Vì tất cả các dân tộc đã uống rượu cuồng loạn vô luân của nó, các vua trên đất đã phạm tội tà dâm với nó, các thương gia trên đất đã làm giàu bởi sự quá xa hoa của nó.

Tình trạng bội đạo không phải chỉ xảy ra giữa cộng đồng không ngoan đạo chỉ có danh nghĩa giáo dân, mà lan tràn khắp các nhà thờ và trong đời sống nhiều người có tiếng là thánh thiện; vì hầu như số người tin kính hứa nguyện sẽ không để mắt vào phim ảnh khiêu dâm trần tục là thiểu số rất nhỏ, số tín đồ còn lại vẫn bị phim ảnh khiêu dâm cám dỗ như số đông người vô thần hay tín đồ ngoại giáo. Khi sự bội đạo càng trầm trọng thêm ở các xã hội có nguồn gốc Cơ-đốc-giáo, thì sẽ tiến tới một mức độ mới: Người ta tìm cách hủy bỏ giới tính tự nhiên nam nữ. Họ căn cứ vào quyền gì của con người để thực hiện mục tiêu đó? Theo cách định nghĩa nhân quyền của tầng lớp nầy thì vấn đề no ấm không phải là quan trọng mà là quyền thỏa mãn sự đòi hỏi của tình dục.

Từ thời xa xưa đã có tình trạng tính dục đồng giới; điều đó chẳng phải là cái gì mới đáng ngạc nhiên; nhưng sự bội phản đạo đức thiên đàng trong thời đại mới đã vượt xa hơn tình dục đồng giới bình thường. Cái mới của phong trào phản kháng đạo đức căn bản của Đấng Tạo Hóa là khiến con người bị lẫn lộn giới tính, không còn biết mình là nam hay nữ. Tại sao một vấn đề bất bình thường của một thiểu số rất nhỏ trong nhân loại bỗng được làm cho trở thành một vấn đề có vẻ quan trọng hàng đầu? Chủ nghĩa nhân bản bênh vực quyền lợi chính đáng của những người thuộc nhóm thiểu số bị nhóm đa số bắt nạt đã áp dụng nguyên tác nhân ái của Kinh Thánh dạy để bênh vực những người cô thế. Chủ nghĩa nhân bản lạm dụng điều đó vào sự bênh vực quyền tự do cá nhân.

Giới chính trị đã lợi dụng sự đồng cảm của người trong xã hội tân tiến ủng hộ quyền riêng tư trong phòng ngủ của mỗi người. Thói đạo đức giả của giới chính trị không bao giờ dừng lại ở giới hạn nào hết. Để giành phiếu bầu của giới người đồng tính, các đảng chính trị muốn chứng tỏ là họ không kỳ thị giới người ấy, là điều chính đáng, nhưng họ vượt quá giới hạn khi tôn sự thực hành đồng tính luyến ái lên thành một điều thánh thiện phải kính trọng. Tuy nhiên, họ thuyết phục đám đông không nổi khi tỉ lệ người đồng tính trong dân số là quá nhỏ. Vì vậy, mục tiêu của đảng chính trị gian xảo trong xã hội là bằng mọi cách đẩy tỉ lệ ấy lên thành con số lớn. Họ không biết rằng họ đang thực hiện kế hoạch của các thế lực ác trong linh giới nhằm làm băng hoại xã hội loài người.

Đó là lý do mà những người chống Đức Chúa Trời, giới chính trị gia gian xảo đã ra sức thúc đẩy cho cái gọi là “giới tính do quan niệm” (perceived gender) trong giới học sinh và sinh viên tại các trường đại học, khuyến khích họ thực hiện lối sống tình dục càng bừa bãi càng có lợi cho thứ đảng chính trị gian xảo ấy. Một số giáo hội đã công khai bội đạo, hợp thức hóa sự thờ kính Baal tân thời qua việc bổ nhiệm những giáo phẩm thực hiện đồng tính luyến ái lên vị trí lãnh đạo các giáo phận. Từ đó, họ nghi ngờ Kinh Thánh và công khai cổ súy các chủ trương và lập trường đầy tội lỗi của phe tả trên chính trường các nước. Họ hoàn toàn bị biến dạng.

TheoDoiTanThe13.docx

Rev. Dr. CTB